Cơ chế hoạt động của đường vitanose

chế hoạt động

Thông qua một enzyme liên kết giữa glucose và fructose, một phần của đường sucrose được sắp xếp lại để gắn thêm một carbohydrate, đó là Vitanose.

Trong thời gian gần đây, xu hướng sản xuất Vitanose ứng dụng enzyme tái tổ hợp được quan tâm nhiều hơn. Công nghệ này cho phép sản xuất enzyme trên vật chủ an toàn và hiệu quả hơn. Đặc tính của enzyme cũng có thể được cải thiện nhờ thay đổi cấu trúc. Enzyme tái tổ hợp có thể hiện nội bào, ngoại bào hoặc cố định trên thành tế bào tùy theo lựa chọn công nghệ.

Trong cấu trúc của Vitanose, các liên kết giữa các đơn phân tử có sự ổn định cao hơn. Do đó giúp cho quá trình tiêu hóa và hấp thụ đường trong cơ thể người là chậm hơn nhiều, đây là lợi ích dinh dưỡng của loại carbohydrate mới này.

Vitanose đã được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất thực phẩm và dược phẩm. Vitanose công nghiệp được sản xuất từ sucrose qua phản ứng đồng phân hoá bởi enzyme sucrose isomerase.

Vitanose được hấp thụ trong cơ thể như thế nào ?

Vitanose được tiêu hóa hoàn toàn nhưng chậm hơn 4-5 lần so với sucrose. Trước khi được cơ thể hấp thụ, Vitanose được chia nhỏ trong đường tiêu hóa. Quá trình tiêu hóa và hấp thụ hầu như hoàn toàn vào phân khúc cuối của ruột non. Do Vitanose được tiêu hóa hoàn toàn nhưng khá chậm nên cung cấp năng lượng đầy đủ (4 kcal /g) cho cơ thể trong một khoảng thời gian dài.

Vitanose hiển thị chỉ số đường huyết tăng chậm hơn với hiệu ứng kéo dài lâu hơn. Không xảy ra tình trạng giảm lượng đường dưới mức chuẩn như trường hợp của các loại đường khác.

 Chỉ số đường huyết của Vitanose là 32. Hiệu ứng ảnh hưởng trên lượng đường huyết giúp cho tuyến tụy phóng thích insulin ít hơn với chỉ số insulin khá thấp chỉ ở mức 30. Chỉ số đường huyết thấp giúp cho tỷ lệ năng lượng tăng cao từ việc đốt cháy các chất béo so với các carbohydrate có sẵn.

Điều này thật sự có ý nghĩa vì Vitanose cung cấp năng lượng liên tục cho cơ thể dưới dạng đường glucose trong một thời gian lâu dài giúp cho hoạt động của cơ bắp và não bộ.

Vitanose không gây hại cho răng vì các vi khuẩn trong răng miệng không thể sử dụng chất này như là chất nền và do đó không tạo ra axit có hại gây phá hủy men răng.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *